Có nên tiêm phòng vắc xin PCV2 cho heo nái?

Có nên tiêm phòng vắc xin PCV2 cho heo nái?
Ngày đăng: 23/11/2021 04:18 PM

    Cập nhật: 23/11/2021

     

    [Tạp chí Chăn nuôi Việt Nam] – Vi rút circo type 2 (PCV2) gây ra thiệt hại kinh tế cho ngành chăn nuôi heo, nó liên quan đến nhiều hội chứng bệnh khác nhau. Các bệnh này hiện nay được gọi chung là bệnh liên quan đến vi rút circo.

     

    Theo các nghiên cứu về khả năng gây bệnh của PCV2 đã được công bố cho thấy vai trò quan trọng của nó trong việc phát triển bệnh hệ thống, đặc trưng bởi sự suy giảm nghiêm trọng của hệ thống miễn dịch (PCV2-SD, trước đây được gọi là hội chứng còi cọc sau cai sữa – PMWS) cũng như bệnh đường ruột (PCV2-ED), bệnh phổi (PCV2-LD), và bệnh sinh sản (PCV2-RD).

     

    1. Ảnh hưởng của PCV2 trên năng suất sinh sản heo nái

     

    Kể từ năm 1999, các nhà khoa học đã công bố các bằng chứng về sự lây nhiễm PCV2 qua nhau thai và sự suy giảm khả năng sinh sản ở heo. Các đàn bị ảnh hưởng thường là những đàn mới, đàn chưa từng tiếp xúc với mầm bệnh hoặc có tỷ lệ hậu bị cao. Heo đực giống thải ra một lượng thấp PCV2 lây nhiễm trong tinh dịch trong khoảng thời gian dài.

     

    Biểu hiện lâm sàng của các rối loạn sinh sản liên quan đến PCV2 đa dạng, phụ thuộc vào thời điểm nhiễm bệnh trong thai kỳ, tình trạng miễn dịch của heo nái. Nhiễm PCV2 ở giai đoạn mang thai sớm gây chết phôi và động dục trở lại ở nái. Bào thai nhiễm vi rút trước 70 ngày thai kỳ dẫn đến chết thai và thai khô. Bào thai sau 70 ngày có thể chết, sống sót nhưng yếu ớt, hoặc khỏe mạnh (Hans Nauwynck, 2013).

     

     

    Hình 1: Tuổi nhiễm PCV2 của bào thai và dấu hiệu lâm sàng

     

    Nhiễm PCV2 cận lâm sàng trên heo nái phổ biến hơn nhiều và không phụ thuộc vào lứa đẻ của nái. Trong trường hợp này, heo nái và heo con không có dấu hiệu lâm sàng rõ ràng, nhưng năng suất của đàn có thể bị ảnh hưởng do tăng tỷ lệ lốc/lên giống lại, giảm tỷ lệ đẻ, tăng tỷ lệ heo con sơ sinh yếu…

     

    Heo con theo mẹ bị nhiễm PCV2 trong tử cung có thể không có biểu hiện bệnh về mặt lâm sàng. Tuy nhiên, chúng bị nhiễm vi rút bẩm sinh, góp phần làm lây lan PCV2 theo chiều ngang từ đàn nái sang heo con cai sữa.

     

    Huigang Shen (2010), thực hiện xét nghiệm PCR tìm vi rút PCV2 trên 499 mẫu máu heo con mới sinh chưa được cho bú sữa mẹ từ 125 heo nái của 5 trang trại tại Hoa Kỳ, kết quả có 199/499 mẫu, tương đương 39,9%, heo con dương tính với PCV2.

     

    Tương tự như vậy, theo Tanja Opriessnig (2012), nhóm nghiên cứu của bà và những nhà nghiên cứu khác đã tìm thấy rằng, ở những đàn giống khỏe mạnh, tỷ lệ nhiễm virus PCV2 trên heo sơ sinh có thể cao từ 16% đến 71%.

     

    Enric Marco (2016) cho rằng sự phát tán vi rút PCV2 trong tinh dịch và tỷ lệ heo con nhiễm bệnh trong tử cung có thể giảm đáng kể nếu heo nái và heo nọc được tiêm phòng PCV2 trước thời gian phơi nhiễm dự kiến.

     

     

    Hình 2: Dấu hiệu lâm sàng và phương pháp chẩn đoán nhiễm PCV2 trong tử cung

     

    2. Tỷ lệ tiêm vắc xin PCV2 trên heo nái

     

    Khảo sát nội bộ của Virbac, được thực hiện năm 2020 tại Việt Nam cho thấy chỉ có khoảng 11% số trại tiêm vắc xin PCV2 cho heo nái, trong đó 50% tiêm trước khi đẻ, 22% tiêm sau khi đẻ, 12% tiêm đồng hoạt và 16% số trại tiêm theo quy trình linh hoạt. Tỷ lệ tiêm vắc xin PCV2 cho heo nái ở Thái Lan, Đài Loan, Philippines và Hàn Quốc lần lượt là 11,7; 14,4; 29,1 và 35%.

     

    3. Lợi ích của việc tiêm phòng PCV2 cho heo nái

     

    3.1 Tiêm phòng PCV2 cho heo nái giúp cải thiện tăng trọng và tỷ lệ nhiễm PCV2 trên heo con

     

    Fraile (2012) theo dõi mức tăng trọng ngày của 4 nhóm heo con bao gồm: nhóm tiêm cả nái và con, nhóm chỉ tiêm heo con, nhóm chỉ tiêm nái và nhóm không tiêm cả nái và con. Kết quả cho thấy mức tăng trọng trung bình hàng ngày (ADG) của nhóm tiêm cả heo nái và heo con cao hơn so với các nhóm còn lại. Cụ thể nhóm tiêm cả heo nái và heo con có năng suất cao nhất, với mức tăng thêm 4,1kg trọng lượng mỗi heo, cao hơn có ý nghĩa so với các nhóm khác.

     

     

    Hình 3: So sánh tăng trọng giữa các nhóm thí nghiệm.

     

    Không chỉ cải thiện tăng trọng, nhóm tiêm cả heo nái và heo con cũng có tỷ lệ heo dương tính với vi rút PCV2 trong mẫu máu thấp hơn so với các nhóm còn lại.

     

     

    Hình 4: So sánh tỷ lệ heo dương tính với PCV2 trong máu giữa các nhóm thử nghiệm

     

    Navas J. (2016) cũng chỉ ra rằng, tiêm vắc xin PCV2 cho heo nái giúp giảm đáng kể tỷ lệ heo con dương tính với vi rút PCV2 cũng như giảm đáng kể tải lượng vi rút PCV2 trong mẫu máu của heo con.

     

     

    Hình 5: Tỷ lệ heo con dương tính với PCV2 được xác định bằng xét nghiệm PCR ở các lứa đẻ khác nhau trước (xám) và sau khi tiêm phòng PCV2 cho heo nái (xanh lá cây – lần 1 và xanh lam – lần 2). Các chữ cái khác nhau (a, b, c) chỉ ra sự khác biệt đáng kể (p <0,05) trong các nhóm lứa đẻ khác nhau.

     

     

    Hình 6: Tải lượng vi rút trung bình (giá trị log10) trên heo con ở các lứa đẻ khác nhau trước (xám) và sau khi tiêm phòng PCV2 cho heo nái (xanh lá cây – lần 1 và xanh lam – lần 2).

     

    3.2 Tiêm phòng heo nái giúp ổn định hiệu giá kháng thể mẹ truyền

     

    Chao Nan-Lin và cộng sự (2020) đánh giá hiệu giá kháng thể mẹ truyền ở 83 mẫu máu heo con 3-4 tuần tuổi, chưa được tiêm vắc xin PCV2, từ 3 nhóm heo nái khác nhau. Heo nái thuộc nhóm A không được tiêm phòng PCV2, heo nái nhóm B được tiêm vắc xin PCV2 đồng loạt và nhóm C được tiêm PCV2 lúc 2-4 tuần trước khi đẻ. Kết quả hiệu giá kháng thể mẹ truyền (MDA) cao nhất đã được quan sát thấy ở nhóm heo nái được tiêm PCV2 trước khi đẻ 2-4 tuần [dao động từ 1,70 đến 3,13, trung bình 2,49, CV: 13,77%], tiếp theo là nhóm tiêm đồng loạt [dao động từ 1,61-2,92, trung bình 2,14, CV: 15,96%]. Mức MDA ở nhóm heo nái không tiêm phòng PCV2 [dao động từ 0,17 đến 3,04, trung bình 1,48, CV: 48,57%] thấp hơn rất nhiều so với nhóm được tiêm phòng 2-4 tuần trước khi đẻ và nhóm tiêm đồng loạt (p <0,0001). Ngoài ra, sự biến thiên kháng thể mẹ truyền (CV) cao nhất được quan sát thấy ở nhóm nái không tiêm phòng PCV2.

     

    Như vậy, việc tiêm phòng vắc xin PCV2 cho heo nái không những cải thiện hiệu giá MDA mà còn cải thiện độ đồng đều kháng thể mẹ truyền trên các bầy heo con. Điều này giúp kéo dài thời gian bảo hộ của kháng thể mẹ truyền, đồng thời cũng giúp giảm sự ảnh hưởng của kháng thể mẹ truyền đối với hiệu quả của vắc xin PCV2 trên heo con, nhờ vào sự cải thiện độ đồng đều kháng thể mẹ truyền mà heo con nhận được.

     

     

    Hình 7: Hiệu giá và sự biến thiên kháng thể mẹ truyền ở 3 nhóm heo nái từ 12 trại. Nhóm A heo nái không tiêm vắc xin, nhóm B heo nái tiêm vắc xin đồng loạt và nhóm C heo nái được tiêm vắc xin ở thời điểm 2-4 tuần trước khi đẻ.

     

    4. Tiêm vắc xin PCV2 cho heo con khi kháng thể mẹ truyền còn cao có làm giảm hiệu quả của vắc xin không?

     

    Các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm và đánh giá sự ảnh hưởng của mức kháng thể mẹ truyền cao với cả sự đáp ứng miễn dịch và mức tăng trọng ngày của heo con sau khi tiêm vắc xin PCV2. Kết quả cho thấy heo con được tiêm vắc xin PCV2 khi mức MDA cao bị giảm tăng trọng ngày và giảm đáp ứng miễn dịch đáng kể sau khi tiêm vắc xin so với nhóm có mức MDA thấp.

     

    Năm 2016, Hua Feng và cộng sự thực hiện tiêm phòng PCV2 cho 2 nhóm heo con, nhóm 1 có mức kháng thể mẹ truyền cao (S/P=2,455) và nhóm 2 có mức kháng thể mẹ truyền thấp hơn (S/P=1,227), kết quả cho thấy chỉ số tăng trọng trung bình hàng ngày (ADG) ở nhóm có mức MDA thấp cao hơn 52g so với nhóm có mức MDA cao (591g so với 539g). Như vậy, nếu thời gian nuôi từ lúc tiêm vắc xin đến xuất chuồng là 150 ngày, trọng lượng mỗi heo ở nhóm MDA thấp sẽ cao hơn 7,8kg so với heo ở nhóm có MDA cao tại thời điểm tiêm phòng.

     

     

    Hình 8: Nhóm có hiệu giá MDA thấp tại thời điểm tiêm phòng tăng trọng cao hơn 52g so với nhóm có hiệu giá MDA cao.

     

    Nghiên cứu của W.C. Lee và cộng sự (2020) cũng chỉ ra rằng, heo con có mức kháng thể mẹ truyền cao tại thời điểm tiêm vắc xin PCV2, tạo đáp ứng miễn dịch chống lại PCV2 kém hơn đáng kể (p<0.05) so với heo con có mức kháng thể mẹ truyền trung bình và thấp.

     

     

    Hình 9: Sự chuyển đổi huyết thanh ở 3 nhóm heo có kháng thể mẹ truyền cao, trung bình và thấp.

     

    Nghiên cứu của Chao Nan-Lin (2020) cho thấy việc tiêm phòng vắc xin PCV2 cho heo con ở 3 tuần tuổi, không tạo ra sự chuyển đổi huyết thanh trên cả 3 nhóm heo con được sinh ra từ nhóm trại không tiêm vắc xin PCV2 cho heo nái (a), nhóm trại tiêm vắc xin đồng loạt (b) và nhóm trại tiêm vắc xin lúc 2-4 tuần trước khi đẻ (c). Điều này chứng tỏ kháng thể mẹ truyền cao thực sự có ảnh hưởng đến đáp ứng miễn dịch sau khi tiêm PCV2 trên heo con. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, mặc dù heo nái không được tiêm vắc xin ở nhóm trại (a), nhưng vẫn tạo kháng thể mẹ truyền, do phơi nhiễm tự nhiên với vi rút PCV2, và do đó vẫn gây ảnh hưởng không tốt đối với hiệu quả của vắc xin PCV2 trên heo con, khi được tiêm sau lúc 3 tuần tuổi.

     

     

    Hình 10: Sự chuyển đổi huyết thanh sau khi tiêm vắc xin PCV2 lúc 3 tuần tuổi ở 3 nhóm trại (a) không tiêm vắc xin cho heo nái, (b) tiêm vắc xin cho heo nái định kỳ và (c) tiêm vắc xin cho heo nái lúc 2-4 tuần trước đẻ.

     

    Tương tự, nghiên cứu của Fort (2009) cũng đưa ra kết luận hiệu giá kháng thể mẹ truyền cao tại thời điểm tiêm phòng vắc xin PCV2 không tạo ra sự chuyển đổi huyết thanh sau khi tiêm phòng.

     

    5. Tuổi tiêm vắc xin PCV2 phù hợp trên heo con khi đã tiêm phòng cho heo nái?

     

    Yeosun Oh (2014) nghiên cứu trên nhóm heo con sinh ra từ heo nái đã được tiêm phòng PCV2 trước khi phối. Heo con được chia thành 2 nhóm, nhóm 1 được tiêm vắc xin lúc 3 tuần tuổi, nhóm 2 được tiêm vắc xin lúc 7 tuần tuổi. Kết quả, có sự tương quan nghịch giữa hiệu giá kháng thể mẹ truyền và mức gia tăng kháng thể trung hòa sau khi tiêm phòng. Có nghĩa là nếu kháng thể mẹ truyền càng cao tại thời điểm tiêm ngừa thì mức gia tăng kháng thể trung hòa sau khi tiêm phòng càng thấp và ngược lại. Sự tương quan nghịch này không xảy ra ở nhóm được tiêm vắc xin lúc 7 tuần tuổi. Điều này cho thấy, trại nên tiêm phòng PCV2 cho heo con muộn hơn khi đã tiêm phòng cho heo nái.

     

    Để xác định chính xác thời điểm tiêm ngừa PCV2 cho heo con, giảm thiểu sự ảnh hưởng của kháng thể mẹ truyền, các trang trại nên thường xuyên tiến hành kiểm tra hiệu giá kháng thể mẹ truyền. Xét nghiệm này có thể được thực hiện dựa trên mẫu máu trên heo con ở độ tuổi 2; 4; 6 và 8 tuần tuổi hoặc dựa trên mẫu sữa đầu của heo nái.

     

    6. Kết luận

     

    Vi rút circo type 2 (PCV2) là một trong các loài vi rút có tỷ lệ lây nhiễm trên heo cao nhất thế giới. Chúng hiện diện ở tất cả các khu vực chăn nuôi heo trọng điểm như Châu Á, Châu Âu và Mỹ. Ngoài việc gây ra hội chứng còi cọc sau cai sữa trên heo con, chúng còn gây ra các vấn đề liên quan đến đường tiêu hóa, viêm phổi và rối loạn sinh sản trên heo nái. Heo nái nhiễm PCV2 có thể bị sảy thai, chết phôi, chết thai, thai khô và lên giống lại. Heo con sinh ra từ nái nhiễm PCV2 có thể bị chết, yếu hoặc khỏe mạnh nhưng bị nhiễm vi rút PCV2 bẩm sinh. Heo nọc nhiễm PCV2 cũng có thể truyền lây cho heo con thông qua tinh dịch. Chính vì vậy, việc tiêm phòng PCV2 cho heo nái và heo nọc là cần thiết để kiểm soát sự lây nhiễm PCV2 trong các trang trại heo.

     

    Ngoài ra, heo nái mặc dù không được tiêm vắc xin PCV2 vẫn có thể bị phơi nhiễm vi rút tự nhiên, tạo ra kháng thể mẹ truyền cho heo con của chúng. Kháng thể mẹ truyền này có thể bảo vệ heo con sơ sinh khỏi vi rút PCV2 tự nhiên, nhưng cũng có thể trung hòa vắc xin PCV2 trên heo con trong trường hợp trại tiêm quá sớm. Đồng thời sự biến thiên kháng thể mẹ truyền giữa các cá thể heo nái gây ra nhiều khó khăn cho người chăn nuôi trong việc xác định độ tuổi tiêm vắc xin PCV2 phù hợp trên heo con.

     

    Như vậy, việc tiêm vắc xin PCV2 cho heo nái không chỉ giúp kiểm soát sự lây nhiễm PCV2 trong trang trại, mà còn giúp ổn định hiệu giá kháng thể mẹ truyền của heo nái, qua đó giúp trang trại dễ dàng hơn trong việc xác định chính xác độ tuổi cần tiêm ngừa PCV2 cho heo con.

     

    Tiêm vắc xin PCV2 cho heo nái còn giúp trang trại đẩy lùi thời điểm tiêm vắc xin PCV2 trên heo con lên mức 6-8 tuần tuổi. Nhờ đó, miễn dịch được hình thành sau khi tiêm PCV2 trên heo con sẽ giúp bảo vệ heo con đến tận cuối giai đoạn xuất chuồng, giúp giảm tỷ lệ heo thịt có biểu hiện lâm sàng của PCV2. Điều này đặc biệt có lợi cho các trại nuôi heo thịt có trọng lượng lớn và cho heo nái hậu bị, nhờ thời gian bảo hộ kéo dài.

     

    VIRBAC TEAM

    Nguồn: http://nhachannuoi.vn/co-nen-tiem-phong-vac-xin-pcv2-cho-heo-nai/

    Chia sẻ:
    Bài viết khác:
    Đối tác
    Zalo
    Hotline